Top 1 Thuyết minh về Đền Mẫu Thủy Linh Từ – Hà Nội
Kiến trúc của ngôi đền hiện giờ được xây dựng theo hình chữ “Đinh”, với cổng Tam quan dẫn vào khu vực chính. Bên trái cổng Tam quan là Đảo Phật Bà, nơi đặt bức tượng Đức Mẹ Quan Âm Đại Sĩ hiền từ, một tay bấm khuyết cầm cành liễu, một tay cầm bình cam lộ trang nghiêm, thanh tịnh. Vòng qua đảo, đi sâu vào khoảng 100 bước là tới chính cung, hai bên tả – hữu là gian nhà thờ Thần thổ địa, thần cai quản bản đền. Bên trong nội cung chính là gian thờ Mẫu Thủy (âm đọc chệch là Mẫu Thoải), với đôi câu đối cổ ca ngợi đức hạnh của ngài:
“Quốc sắc khuynh thành thiên hạ hữu
Nữ trung chính trực thế gian vô”
Dịch:
“Người đẹp nghiêng nước, nghiêng thành thì có thừa
Người phụ nữ trung trinh, tiết hạnh thì khó thấy”
Phía bên trái của gian thờ Mẫu là gian thờ Chúa bà sơn trang, cai quản mười tám cửa rừng, mười hai cửa bể với bức đại tự có đề “U hiển sơn lâm” (Rừng núi linh thiêng bí ẩn); bên trái là ban thờ Trần Triều tức Đức vua cha Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn – một vị đại tướng lẫy lừng trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược với hào khí Sát Thát, Đông A uy dũng bốn phương. Bên trên cửa võng có bức đại tự “Trần Triều hiển thánh”, bên dưới có đôi câu đối:
“Đức đại an dân thiên cổ thịnh
Công cao hiển thánh vạn niên trường”.
Tạm dịch:
“Đức lớn an dân nghìn năm còn mãi
Công cao hiển thánh mãi mãi muôn đời”
Ở giữa ban thờ công đồng Đình thần Tam Tứ phủ là cây hương đá cổ cùng bốn trụ đá được phát lộ năm 1998, có niên đại cách chúng ta ngày nay trên dưới 1000 năm lịch sử.
Lễ hội hằng năm của Đền được tổ chức vào ngày 21 tháng 2 âm lịch, tương truyền là ngày Mẫu được trả về trần gian và ngày 22 tháng 8 âm lịch tương truyền là ngày Vua cha Bát Hải Động Đình (tức là vua Thủy Tề) đón Mẫu về làm vợ. Lễ hội được tổ chức trọng thể thu hút hàng trăm, hàng nghìn khách thập phương tứ xứ mọi nơi về lễ bái, hầu đồng lấy lộc cầu may. Các trò chơi dân gian trong lễ hội cũng được diễn ra hết sức sôi động như: kéo co, đi cầu khỉ, bịt mắt đập niêu…và đặc biệt là cuộc chơi thi thooirr cơm và hát quan họ trên thuyền rồng. Bởi tương truyền rằng, khi Mẫu được trả về trần gian, vua Thủy Tề đã cho Ngư Long làm hiển hoa thành thuyền rồng, cùng các nàng tiên cá hóa phép làm người cưỡi rồng theo hầu cơm nước và hát tiễn Mẫu lên trần.
Đền Mẫu Thủy Linh Từ là một trong các ngôi đền cổ kính, linh thiếng thờ Mẫu Thoải – một vị Mẫu trong hàng tứ phủ có nhiệm vụ coi sóc, trị thủy miền sông nước. Đây là ngôi đền duy nhất trong các ngôi đền trên cả nước có Lăng mộ Mẫu Thoải và hiện vẫn còn rất nhiều các dấu tích gắn liền với truyền thuyết của Mẫu Thủy vùng Trôi Ao Sen như: Đền thờ, Cống Lửi ( nơi Mẫu bị vua Thủy Tề bắt đi), Gò Dương Vó ( dấu tích của gót ngựa Thánh Gióng đi qua)… Với tất cả những yếu tố trên Đền xứng đáng với danh hiệu “Đệ Tam Quốc Mẫu Linh Từ”, là một trong các trung tâm tâm linh linh thiêng nhất cả nước, chung đúc khí thiêng của ngàn năm văn hóa dân tộc Việt Nam!.
Top 2 Thuyết minh về đảo Cô Tô – Quảng Ninh
Quần đảo Cô Tô, thuộc tỉnh Quảng Ninh, gồm 30 đảo lớn nhỏ, trong đó trung tâm là đảo Cô Tô Lớn và đảo Thanh Luân. Với diện tích khoảng 47,3 km2 và dân số khoảng 6000 người, Cô Tô là một địa điểm du lịch lý tưởng để khám phá những nét đẹp hoang sơ và tận hưởng không khí trong lành, mát mẻ.
Địa hình của Cô Tô chủ yếu là đồi núi với những đỉnh cao như Cáp Cháu (210m), đỉnh đài khí tượng trên đảo chính (160m). Xung quanh các đảo là những núi thấp, những cánh đồng hẹp, những bãi cát trắng trải dài và những vịnh nhỏ ẩn mình trong vẻ đẹp thanh bình. Dòng suối trên đảo hiếm hoi, được cải tạo thành 11 hồ nhỏ phục vụ nhu cầu sinh hoạt và nông nghiệp. Tuy nhiên, nguồn nước ngầm trên đảo rất dồi dào, mang lại nguồn nước sạch, an toàn cho người dân.
Thiên nhiên trên đảo Cô Tô vô cùng phong phú, với những cánh rừng tự nhiên đa dạng, nhiều loại gỗ quý, mang lại giá trị kinh tế cao. Ngoài ra, trên đảo còn trồng các loại cây ăn quả như cam, quýt, chuối,… đã trở thành sản vật nổi tiếng của vùng đất này. Cùng với đó là những loại dược liệu quý hiếm như hương nhu, sâm đất, thầu dầu tía,… và các loại hải sản phong phú, từ tôm, cá, mực, tu hài, ốc móng tay đến những loại hải sản quý hiếm như cầu gai, cá hồng, cá song, cá chim, ghẹ, tu hài, bề bề, tôm nõn, cá thu một nắng. Đặc biệt, mực một nắng Cô Tô nổi tiếng với hương vị thơm ngon, hấp dẫn, không nơi nào có được.
Bên cạnh giá trị kinh tế, Cô Tô còn là điểm du lịch hấp dẫn. Đến với nơi đây, du khách sẽ được đắm mình trong vẻ đẹp hoang sơ, thơ mộng của những bãi biển trải dài cát trắng mịn, nước biển trong xanh. Những bãi tắm nổi tiếng như bãi Tàu Đắm, Hồng Vàn, Vàn Chải,… mỗi nơi đều mang nét đẹp riêng. Bãi Bắc Vàn với những sao biển, bãi Cầu Mỵ với những vách núi độc đáo và đặc biệt là bãi Hồng Vàn, nơi lý tưởng để tắm biển, ngắm hoàng hôn với cát trắng mịn, biển sạch, không có rác bẩn. Còn nếu muốn tìm kiếm sự yên tĩnh, riêng tư, du khách có thể đến đảo Cô Tô con, cách Cô Tô lớn khoảng 15 phút đi tàu.
Không thể bỏ qua ngọn hải đăng Cô Tô, được xây dựng cuối thế kỷ XIX, hiện đang hoạt động bằng pin năng lượng mặt trời. Từ đỉnh hải đăng, du khách có thể phóng tầm mắt, ngắm toàn cảnh Cô Tô, hòa mình vào thiên nhiên, với gió biển mặn mòi, nắng vàng óng ánh, biển cả bao la, tạo nên một trải nghiệm khó quên.
Vẻ đẹp nên thơ của Cô Tô đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho các nghệ sĩ. Bài kí Cô Tô nổi tiếng của nhà văn Nguyễn Tuân là minh chứng rõ nét nhất cho điều đó. Với ngòi bút tài hoa, ông đã vẽ nên một Cô Tô đầy sức sống, đầy chất thơ.
Cô Tô là một kì quan đẹp đẽ của Việt Nam, với những nét đẹp độc đáo, vừa có nét cứng cỏi của núi non, vừa có nét mềm mại của biển cát, sóng vỗ. Nơi đây chắc chắn sẽ là điểm đến lý tưởng cho những ai muốn tìm kiếm sự bình yên, thư giãn và khám phá vẻ đẹp hoang sơ của thiên nhiên.
Top 3 Thuyết minh về Núi Hàm Rồng Sapa – Lào Cai
Top 4 Thuyết minh về di tích lịch sử Đền Hùng – Phú Thọ
Top 5 Thuyết minh về Chùa Hương – Hà Nội
Chùa Hương hay còn gọi là Hương Sơn là cả một quần thể văn hóa – tôn giáo Việt Nam, gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, vài ngôi đền thờ thần, các ngôi đình, thờ tín ngưỡng nông nghiệp, nằm ở xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội. Được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 17 vào thời kỳ Đàng Trong – Đàng Ngoài, sau đó bị hủy hoại trong kháng chiến chống Pháp năm 1947, sau đó được phục dựng lại năm 1988 do Thượng Tọa Thích Viên Thành dưới sự chỉ dạy của cố Hòa thượng Thích Thanh Chân.
Nơi đây gắn liền với tín ngưỡng dân gian thờ Bà Chúa Ba, theo phật thoại xưa kể lại rằng người con gái thứ ba của vua Diệu Trang Vương nước Hương Lâm tên là Diệu Thiện chính là chúa Ba hiện thân của Bồ Tát Quan Thế Âm, trải qua nhiều thử thách, gian nan với chín năm tu hành bà đã đắc đạo thành Phật để cứu độ chúng sinh.
Dưới đôi bàn tay khéo léo của người xưa cùng với những nét đẹp tạo hóa mà thiên nhiên ban tặng, mà vẻ đẹp của chùa Hương mang một dấu ấn rất riêng, đưa ta đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Quần thể chùa Hương có nhiều công trình kiến trúc rải rác trong thung lũng suối Yến.
Khu vực chính là chùa Ngoài, còn gọi là chùa Trò, tên chữ là chùa Thiên Trù. Chùa nằm không xa bến Trò nơi khách hành hương đi ngược suối Yến từ bến Đục vào chùa thì xuống đò ở đấy mà lên bộ. Tam quan chùa được cất trên ba khoảng sân rộng lát gạch. Sân thứ ba dựng tháp chuông với ba tầng mái.
Đây là một công trình cổ, dáng dấp độc đáo vì lộ hai đầu hồi tam giác trên tầng cao nhất. Tháp chuông này nguyên thủy thuộc chùa làng Cao Mật, tỉnh Hà Đông, năm 1980 được di chuyển về chùa Hương làm tháp chuông. Chùa Chính, tức chùa Trong không phải là một công trình nhân tạo mà là một động đá thiên nhiên. Ở lối xuống hang động có cổng lớn, trán cổng ghi bốn chữ “Hương Tích động môn”. Qua cổng là con dốc dài, lối đi xây thành 120 bậc lát đá. Vách động có năm chữ Hán “Nam thiên đệ nhất động” là bút tích của Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm. Ngoài ra động còn có một số bia và thi văn tạc trên vách đá.
Lễ hội chùa Hương được tổ chức vào ngày mồng sáu tháng giêng, thường kéo dài đến hạ tuần tháng ba âm lịch. Vào dịp lễ, hàng triệu phật tử cùng du khách tứ phương lại nô nức trẩy hội chùa Hương. Đỉnh cao của lễ hội là từ rằm tháng giêng đến 18 tháng hai âm lịch. Đây là ngày lễ khai sơn của địa phương nhưng ngày nay nghi lễ khai sơn được hiểu theo nghĩa mở- mở cửa chùa. Lễ hội chùa Hương trong phần lễ thực hiện rất đơn giản. Một ngày trước khi khai hội, tất cả các đền, chùa, đình, miếu đều được thắp hương nghi ngút. Ở trong chùa Trong có lễ dâng hương, gồm hương, hoa, đèn, nến, hoa quả và thức ăn chay. Lúc cúng có hai tăng ni mặc áo cà sa mang đồ lễ chay đàn rồi mới tiến dùng đồ lễ lên bàn thờ.
Trong lễ hội có rước lễ và rước văn. Người làng dinh kiệu tới nhà ông soạn văn tế, rước bản văn ra đền để chủ tế trịnh trọng đọc, điều khiển các bô lão của làng làm lễ tế rước các vị thần làng. Lễ hội chùa Hương còn là nơi hội tụ các sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo như bơi thuyền, leo núi và các chiếu hát chèo, hát văn. Không chỉ có vẻ đẹp độc đáo của kiến trúc, phong cảnh chùa cùng với nét đặc sắc của ngày lễ mà chùa Hương còn chứa đựng những giá trị sâu sắc về văn hóa tâm linh, lịch sử dân tộc và còn là giá trị sống của chuỗi phát triển con người từ xa xưa đến ngày nay, cần được bảo tồn, duy trì và gìn giữ di sản mà ông cha ta để lại.
Như vậy, với những giá trị đó, chùa Hương chính là niềm tự hào của người Hà Nội nói chung và người Việt Nam nói riêng, đến với chùa Hương là đến với không gian thanh tịnh, sống chậm lại để cảm nhận sự nhẹ nhõm trong tâm hồn, buông bỏ mọi áp lực, căng thẳng trong cuộc sống ngoài kia.