Top 5 Bài văn thuyết minh về danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử hay nhất

Được chia sẻ bởi:

Việt Nam ta dọc từ Bắc vào Nam khắp nơi đâu đâu cũng có những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử đẹp và oai nghiêm. Vốn dĩ được thiên nhiên ban tặng nên khi … xem thêm…đặt chân đến nơi đây du khách trong nước cũng như nước ngoài luôn phải trầm trồ thán phục. Hôm nay Toplist sẽ giới thiệu với các bạn những bài văn thuyết minh về danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử hay nhất. Chắc chắn qua những bài viết này bạn sẽ hiểu thêm về các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử đó. Còn các bạn học sinh sẽ có thêm tư liệu để làm bài văn thuyết minh của mình.


Top 1 Thuyết minh về Đền Mẫu Thủy Linh Từ – Hà Nội

Nằm ở phía Nam Hà Nội, cách trung tâm thành phố khoảng 20km, Đền Mẫu Thủy Linh Từ tọa lạc tại một cánh đồng chiêm trũng Trôi Ao Sen thuộc phủ Hoài Đức xưa, nay là địa phận thuộc thôn Nội – Đức Thượng – Hoài Đức – Hà Nội. Ngôi đền cổ kính này được bao bọc xung quanh là đầm phá ao sen rộng lớn của hệ thống ven sông Hồng, một cảnh quan thơ mộng và yên bình.

Kiến trúc của ngôi đền hiện giờ được xây dựng theo hình chữ “Đinh”, với cổng Tam quan dẫn vào khu vực chính. Bên trái cổng Tam quan là Đảo Phật Bà, nơi đặt bức tượng Đức Mẹ Quan Âm Đại Sĩ hiền từ, một tay bấm khuyết cầm cành liễu, một tay cầm bình cam lộ trang nghiêm, thanh tịnh. Vòng qua đảo, đi sâu vào khoảng 100 bước là tới chính cung, hai bên tả – hữu là gian nhà thờ Thần thổ địa, thần cai quản bản đền. Bên trong nội cung chính là gian thờ Mẫu Thủy (âm đọc chệch là Mẫu Thoải), với đôi câu đối cổ ca ngợi đức hạnh của ngài:

“Quốc sắc khuynh thành thiên hạ hữu

Nữ trung chính trực thế gian vô”
Dịch:
“Người đẹp nghiêng nước, nghiêng thành thì có thừa
Người phụ nữ trung trinh, tiết hạnh thì khó thấy”

Phía bên trái của gian thờ Mẫu là gian thờ Chúa bà sơn trang, cai quản mười tám cửa rừng, mười hai cửa bể với bức đại tự có đề “U hiển sơn lâm” (Rừng núi linh thiêng bí ẩn); bên trái là ban thờ Trần Triều tức Đức vua cha Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn – một vị đại tướng lẫy lừng trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược với hào khí Sát Thát, Đông A uy dũng bốn phương. Bên trên cửa võng có bức đại tự “Trần Triều hiển thánh”, bên dưới có đôi câu đối:

“Đức đại an dân thiên cổ thịnh

Công cao hiển thánh vạn niên trường”.
Tạm dịch:
“Đức lớn an dân nghìn năm còn mãi
Công cao hiển thánh mãi mãi muôn đời”

Ở giữa ban thờ công đồng Đình thần Tam Tứ phủ là cây hương đá cổ cùng bốn trụ đá được phát lộ năm 1998, có niên đại cách chúng ta ngày nay trên dưới 1000 năm lịch sử.

Lễ hội hằng năm của Đền được tổ chức vào ngày 21 tháng 2 âm lịch, tương truyền là ngày Mẫu được trả về trần gian và ngày 22 tháng 8 âm lịch tương truyền là ngày Vua cha Bát Hải Động Đình (tức là vua Thủy Tề) đón Mẫu về làm vợ. Lễ hội được tổ chức trọng thể thu hút hàng trăm, hàng nghìn khách thập phương tứ xứ mọi nơi về lễ bái, hầu đồng lấy lộc cầu may. Các trò chơi dân gian trong lễ hội cũng được diễn ra hết sức sôi động như: kéo co, đi cầu khỉ, bịt mắt đập niêu…và đặc biệt là cuộc chơi thi thooirr cơm và hát quan họ trên thuyền rồng. Bởi tương truyền rằng, khi Mẫu được trả về trần gian, vua Thủy Tề đã cho Ngư Long làm hiển hoa thành thuyền rồng, cùng các nàng tiên cá hóa phép làm người cưỡi rồng theo hầu cơm nước và hát tiễn Mẫu lên trần.

Đền Mẫu Thủy Linh Từ là một trong các ngôi đền cổ kính, linh thiếng thờ Mẫu Thoải – một vị Mẫu trong hàng tứ phủ có nhiệm vụ coi sóc, trị thủy miền sông nước. Đây là ngôi đền duy nhất trong các ngôi đền trên cả nước có Lăng mộ Mẫu Thoải và hiện vẫn còn rất nhiều các dấu tích gắn liền với truyền thuyết của Mẫu Thủy vùng Trôi Ao Sen như: Đền thờ, Cống Lửi ( nơi Mẫu bị vua Thủy Tề bắt đi), Gò Dương Vó ( dấu tích của gót ngựa Thánh Gióng đi qua)… Với tất cả những yếu tố trên Đền xứng đáng với danh hiệu “Đệ Tam Quốc Mẫu Linh Từ”, là một trong các trung tâm tâm linh linh thiêng nhất cả nước, chung đúc khí thiêng của ngàn năm văn hóa dân tộc Việt Nam!.

Top 2 Thuyết minh về đảo Cô Tô – Quảng Ninh

Nằm ẩn mình giữa vùng biển xanh biếc của Quảng Ninh, Cô Tô không chỉ là điểm du lịch nổi tiếng mà còn là nguồn cảm hứng bất tận cho thơ ca và văn học. Nơi đây, vẻ đẹp hoang sơ, thơ mộng của biển trời hòa quyện cùng nét đẹp lịch sử, văn hóa lâu đời, tạo nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp.

Quần đảo Cô Tô, thuộc tỉnh Quảng Ninh, gồm 30 đảo lớn nhỏ, trong đó trung tâm là đảo Cô Tô Lớn và đảo Thanh Luân. Với diện tích khoảng 47,3 km2 và dân số khoảng 6000 người, Cô Tô là một địa điểm du lịch lý tưởng để khám phá những nét đẹp hoang sơ và tận hưởng không khí trong lành, mát mẻ.

Địa hình của Cô Tô chủ yếu là đồi núi với những đỉnh cao như Cáp Cháu (210m), đỉnh đài khí tượng trên đảo chính (160m). Xung quanh các đảo là những núi thấp, những cánh đồng hẹp, những bãi cát trắng trải dài và những vịnh nhỏ ẩn mình trong vẻ đẹp thanh bình. Dòng suối trên đảo hiếm hoi, được cải tạo thành 11 hồ nhỏ phục vụ nhu cầu sinh hoạt và nông nghiệp. Tuy nhiên, nguồn nước ngầm trên đảo rất dồi dào, mang lại nguồn nước sạch, an toàn cho người dân.

Thiên nhiên trên đảo Cô Tô vô cùng phong phú, với những cánh rừng tự nhiên đa dạng, nhiều loại gỗ quý, mang lại giá trị kinh tế cao. Ngoài ra, trên đảo còn trồng các loại cây ăn quả như cam, quýt, chuối,… đã trở thành sản vật nổi tiếng của vùng đất này. Cùng với đó là những loại dược liệu quý hiếm như hương nhu, sâm đất, thầu dầu tía,… và các loại hải sản phong phú, từ tôm, cá, mực, tu hài, ốc móng tay đến những loại hải sản quý hiếm như cầu gai, cá hồng, cá song, cá chim, ghẹ, tu hài, bề bề, tôm nõn, cá thu một nắng. Đặc biệt, mực một nắng Cô Tô nổi tiếng với hương vị thơm ngon, hấp dẫn, không nơi nào có được.

Bên cạnh giá trị kinh tế, Cô Tô còn là điểm du lịch hấp dẫn. Đến với nơi đây, du khách sẽ được đắm mình trong vẻ đẹp hoang sơ, thơ mộng của những bãi biển trải dài cát trắng mịn, nước biển trong xanh. Những bãi tắm nổi tiếng như bãi Tàu Đắm, Hồng Vàn, Vàn Chải,… mỗi nơi đều mang nét đẹp riêng. Bãi Bắc Vàn với những sao biển, bãi Cầu Mỵ với những vách núi độc đáo và đặc biệt là bãi Hồng Vàn, nơi lý tưởng để tắm biển, ngắm hoàng hôn với cát trắng mịn, biển sạch, không có rác bẩn. Còn nếu muốn tìm kiếm sự yên tĩnh, riêng tư, du khách có thể đến đảo Cô Tô con, cách Cô Tô lớn khoảng 15 phút đi tàu.

Không thể bỏ qua ngọn hải đăng Cô Tô, được xây dựng cuối thế kỷ XIX, hiện đang hoạt động bằng pin năng lượng mặt trời. Từ đỉnh hải đăng, du khách có thể phóng tầm mắt, ngắm toàn cảnh Cô Tô, hòa mình vào thiên nhiên, với gió biển mặn mòi, nắng vàng óng ánh, biển cả bao la, tạo nên một trải nghiệm khó quên.

Vẻ đẹp nên thơ của Cô Tô đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho các nghệ sĩ. Bài kí Cô Tô nổi tiếng của nhà văn Nguyễn Tuân là minh chứng rõ nét nhất cho điều đó. Với ngòi bút tài hoa, ông đã vẽ nên một Cô Tô đầy sức sống, đầy chất thơ.

Cô Tô là một kì quan đẹp đẽ của Việt Nam, với những nét đẹp độc đáo, vừa có nét cứng cỏi của núi non, vừa có nét mềm mại của biển cát, sóng vỗ. Nơi đây chắc chắn sẽ là điểm đến lý tưởng cho những ai muốn tìm kiếm sự bình yên, thư giãn và khám phá vẻ đẹp hoang sơ của thiên nhiên.

Top 3 Thuyết minh về Núi Hàm Rồng Sapa – Lào Cai

Nằm giữa thành phố mờ sương Sa Pa, Núi Hàm Rồng là một trong những điểm du lịch thu hút khách du lịch nhất. Núi có độ cao từ 1450m đến 1850m so với mực nước biển, với những dãy núi hùng vĩ được bao phủ bởi màu xanh của cây cối. Đặc biệt, vào mùa đông, nhiệt độ xuống thấp tạo nên hiện tượng băng giá và tuyết, thu hút sự tò mò và hứng thú của du khách. Khu du lịch Hàm Rồng được xây dựng từ năm 1996, trải rộng trên diện tích 148ha. Nơi đây khai thác vẻ đẹp hoang sơ của thiên nhiên, tạo nên sự thu hút riêng biệt. Du khách sẽ được chiêm ngưỡng khung cảnh thiên nhiên đa dạng, từ vườn lan với hơn 6000 giò lan đến vườn hoa rực rỡ sắc màu. Đường lên đỉnh núi Hàm Rồng quanh co uốn lượn, trải qua những bậc đá, đưa du khách đến với hang Tam Môn bí ẩn và vườn cây ăn trái đa dạng. Trên đỉnh núi, tại sân mây, du khách sẽ được ngắm nhìn khung cảnh thiên nhiên kỳ vĩ, với mây trắng bồng bềnh và không khí se lạnh. Núi Hàm Rồng là một trong những tiềm năng du lịch lớn của Lào Cai, mang đến cho du khách không gian nghỉ dưỡng lý tưởng, hòa mình trọn vẹn vào thiên nhiên.

Top 4 Thuyết minh về di tích lịch sử Đền Hùng – Phú Thọ

{“content”: “Đền Hùng, quần thể kiến trúc lịch sử, văn hóa và tín ngưỡng quan trọng của người Việt, là minh chứng cho đạo lý “uống nước nhớ nguồn” đối với các vua Hùng, những người có công dựng nước và giữ nước. Nằm trên núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phúc, cách Hà Nội 100km về phía Bắc, Đền Hùng là điểm du lịch nổi tiếng thu hút đông đảo du khách. Quần thể kiến trúc bao gồm lăng tẩm, đền, miếu cổ kính, được trùng tu và xây dựng lại nhiều lần, gần đây nhất là vào năm 1922. Từ chân núi đi lên, qua cổng đền, du khách sẽ đến đền Hạ, nơi truyền thuyết kể rằng bà Âu Cơ đẻ ra bọc trăm trứng, khai sinh ra dân tộc Việt Nam. Sau đền Hạ là đền Trung, nơi các vua Hùng họp bàn với các Lạc hầu, Lạc tướng. Trên đỉnh núi là đền Thượng, nơi thờ lăng Hùng Vương thứ sáu, được dân gian gọi là mộ tổ. Phía Tây nam đền Thượng là đền Giếng, nổi tiếng với giếng đá nước trong vắt, nơi các công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa, con vua Hùng Vương thứ mười tám, thường tới gội đầu. Du khách đi đến đền Hùng từ Hà Nội, qua Cổ Loa, Đông Anh, khu công nghiệp Việt Trì, khu mộ cổ Làng Cả, cầu Bạch Hạc sẽ nhìn thấy núi Hùng, núi Trọc, núi Văn in hình trên nền trời. Tiếp tục di chuyển, du khách sẽ rẽ vào con đường đất đỏ, xuyên qua những tán cây xanh mát, để đến cổng đền Hùng nằm ở chân núi phía Tây. Phong cảnh nơi đây hùng vĩ, núi non trùng điệp, rừng cây bạt ngàn xanh tốt. Vào những ngày đẹp trời, du khách có thể ngắm nhìn dòng sông Lô hiền hòa, trong vắt, những xóm làng ẩn hiện trong vườn cây trái, tạo nên bức tranh đầy màu sắc. Từ núi Nghĩa Lĩnh, có thể quan sát được một vùng rộng lớn của trung tâm Bắc Bộ với ngã ba Hạ, nơi sông Lô đổ nước vào sông Hồng, cùng các dãy núi Tam Đảo, Ba Vì và các dãy đồi lượn sóng xen kẽ giữa những cánh đồng tốt tươi, những vùng quê trù phú của vùng trung du. Toàn bộ khu di tích gồm 4 đền, 1 chùa và một lăng hài hòa trong phong cảnh thiên nhiên, có địa thế cao rất đẹp mắt. Cao nhất là Đền Thượng, thấp nhất là Đền Giếng. Các Đền được xây dựng theo một kiến trúc cổ kính. Sau khi qua cổng chính của khu di tích, qua 225 bậc đá, là lên đến đền Hạ. Ở khu vực Đền Hạ có chùa Thiên Quang và cây Thiên Tuế 700 tuổi; gần đó có đền Ngọc và giếng Ngọc. Từ Đền Hạ theo 168 bậc đá nữa là Đền Trung và lên tiếp 102 bận nữa thì lên Đền Thượng và có lăng vua Hùng, tượng trưng cho mộ Tổ. Cổng đền được xây theo kiểu vòm cuốn. Tầng dưới có một cửa vòm cuốn lớn, đầu cột trụ cổng tầng trên có cửa vòm nhỏ hơn, bốn góc tầng mái trang trí rồng, đắp nổi hai con nghê. Giữa cột trụ và cổng đắp nổi phù điêu hai võ sĩ; giữa tầng một có đề bức đại tự: “Cao sơn cảnh-hành” (lên núi cao nhìn xa rộng). Mặt sau cổng đắp hai con hổ là hiện thân vật canh giữ thần. Nằm kề bên đền Hạ là Chùa Thiên Quang, được xây vào thời Trần. Phía trước chùa có cây vạn tuế gần tám trăm năm tuổi, xung quanh chùa có hành lang bao bọc, mái lợp ngói mũi, đầu đao cong, bờ nóc đắp hình lưỡng long chầu nguyệt. Trước sân chùa là hai tháp sư hình trụ 4 tầng và một gác chuông có tuổi đời vài trăm năm. Trong chùa có trên 30 pho tượng: Tam Thế, A Di Đà, Quan âm Nam Hải, Quan âm Tống Từ, Đức Thánh Hiền, Hộ Pháp,… được bài trí trang nghiêm. Kiến trúc hiện nay của chùa theo kiểu chữ Công, gồm Tiền đường 5 gian, Tam bảo 3 gian, và Thượng điện 3 gian. Từ đền Hạ leo thêm 168 bậc nữa là có thể đến đền Trung, đây là nơi vua quan ngự bàn việc dân việc nước và thưởng thức vẻ đẹp đất trời. Đền Hạ có tên chữ là Hùng Vương Tổ Miếu, đây là ngôi đền cổ tồn tại từ thời Lý – Trần với cấu trúc đơn giản hình chữ Nhất. Tại đây Lang Liêu đã dâng lên vua cha bánh chưng nhân dịp lễ tết và không phụ với ý trời, công sức của chàng đã được đền đáp bằng việc truyền ngôi của vua cha. Sau một hành trình gian nan cuối cùng du khách cũng đặt chân lên đỉnh Nghĩa Lĩnh, và tại đây có đền Thượng với tên gọi là “Kính Thiên lĩnh điện”. Đây là nơi thờ Thánh Gióng và vua Hùng. Đền Thượng tọa lạc ở trung tâm trời đất và cũng là trung tâm của khu di tích đền Hùng. Ngôi đền có sân rộng và được tôn tạo lại với kiến trúc cổ để du khách tìm về hành lễ nhưng không được đặt chân vào bên trong các gian thờ. Người ta vẫn thường truyền nhau rằng ngôi đền được xây dựng sau khi Thánh Gióng lập nên đại công, đánh đuổi giặc n khỏi quê cha đất tổ. Và sau khi Thánh Gióng đánh tan giặc, rồi bay lên trời thì vua Hùng đã đem ngài hóa ở ngôi đền bên cạnh, đó chính là Lăng vua Hùng. Người hành hương tới đền Hùng không chỉ để vãn cảnh hay tham dự vào cái không khí tưng bừng của ngày hội mà còn vì nhu cầu của đời sống tâm linh. Mỗi người hành hương đều cố thắp lên vài nén hương khi tới đất Tổ để nhờ làn khói thơm nói hộ những điều tâm niệm của mình với tổ tiên. Trong tâm hồn người Việt thì mỗi nắm đất, gốc cây nơi đây đều linh thiêng và chẳng có gì khó hiểu khi nhìn thấy những gốc cây, hốc đá cắm đỏ những chân hương. Trẩy hội Đền Hùng là truyền thống văn hóa đẹp của người Việt Nam. Trong rất nhiều những ngày hội được tổ chức trên khắp đất nước, hội đền Hùng vẫn được coi là hội linh thiêng nhất bởi đó là nơi mỗi người Việt Nam nhớ về cội nguồn và truyền thống oai hùng, hiển hách của cha ông.”, “search_image_keyword”: “Hung Temple Vietnam”}

Top 5 Thuyết minh về Chùa Hương – Hà Nội

Nói về văn hóa tâm linh của người Việt không thể không nhắc đến những đền chùa cổ kính, linh thiêng mang nét đẹp đặc trưng, trầm lắng, nơi bày tỏ niềm thành kính, biết ơn với người xưa, với tín ngưỡng tôn giáo. Một trong những ngôi chùa cổ, nổi tiếng của nước ta phải kể đến chùa Hương – danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử văn hóa và tín ngưỡng của Việt Nam.

Chùa Hương hay còn gọi là Hương Sơn là cả một quần thể văn hóa – tôn giáo Việt Nam, gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, vài ngôi đền thờ thần, các ngôi đình, thờ tín ngưỡng nông nghiệp, nằm ở xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội. Được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 17 vào thời kỳ Đàng Trong – Đàng Ngoài, sau đó bị hủy hoại trong kháng chiến chống Pháp năm 1947, sau đó được phục dựng lại năm 1988 do Thượng Tọa Thích Viên Thành dưới sự chỉ dạy của cố Hòa thượng Thích Thanh Chân.

Nơi đây gắn liền với tín ngưỡng dân gian thờ Bà Chúa Ba, theo phật thoại xưa kể lại rằng người con gái thứ ba của vua Diệu Trang Vương nước Hương Lâm tên là Diệu Thiện chính là chúa Ba hiện thân của Bồ Tát Quan Thế Âm, trải qua nhiều thử thách, gian nan với chín năm tu hành bà đã đắc đạo thành Phật để cứu độ chúng sinh.

Dưới đôi bàn tay khéo léo của người xưa cùng với những nét đẹp tạo hóa mà thiên nhiên ban tặng, mà vẻ đẹp của chùa Hương mang một dấu ấn rất riêng, đưa ta đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Quần thể chùa Hương có nhiều công trình kiến trúc rải rác trong thung lũng suối Yến.

Khu vực chính là chùa Ngoài, còn gọi là chùa Trò, tên chữ là chùa Thiên Trù. Chùa nằm không xa bến Trò nơi khách hành hương đi ngược suối Yến từ bến Đục vào chùa thì xuống đò ở đấy mà lên bộ. Tam quan chùa được cất trên ba khoảng sân rộng lát gạch. Sân thứ ba dựng tháp chuông với ba tầng mái.

Đây là một công trình cổ, dáng dấp độc đáo vì lộ hai đầu hồi tam giác trên tầng cao nhất. Tháp chuông này nguyên thủy thuộc chùa làng Cao Mật, tỉnh Hà Đông, năm 1980 được di chuyển về chùa Hương làm tháp chuông. Chùa Chính, tức chùa Trong không phải là một công trình nhân tạo mà là một động đá thiên nhiên. Ở lối xuống hang động có cổng lớn, trán cổng ghi bốn chữ “Hương Tích động môn”. Qua cổng là con dốc dài, lối đi xây thành 120 bậc lát đá. Vách động có năm chữ Hán “Nam thiên đệ nhất động” là bút tích của Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm. Ngoài ra động còn có một số bia và thi văn tạc trên vách đá.

Lễ hội chùa Hương được tổ chức vào ngày mồng sáu tháng giêng, thường kéo dài đến hạ tuần tháng ba âm lịch. Vào dịp lễ, hàng triệu phật tử cùng du khách tứ phương lại nô nức trẩy hội chùa Hương. Đỉnh cao của lễ hội là từ rằm tháng giêng đến 18 tháng hai âm lịch. Đây là ngày lễ khai sơn của địa phương nhưng ngày nay nghi lễ khai sơn được hiểu theo nghĩa mở- mở cửa chùa. Lễ hội chùa Hương trong phần lễ thực hiện rất đơn giản. Một ngày trước khi khai hội, tất cả các đền, chùa, đình, miếu đều được thắp hương nghi ngút. Ở trong chùa Trong có lễ dâng hương, gồm hương, hoa, đèn, nến, hoa quả và thức ăn chay. Lúc cúng có hai tăng ni mặc áo cà sa mang đồ lễ chay đàn rồi mới tiến dùng đồ lễ lên bàn thờ.

Trong lễ hội có rước lễ và rước văn. Người làng dinh kiệu tới nhà ông soạn văn tế, rước bản văn ra đền để chủ tế trịnh trọng đọc, điều khiển các bô lão của làng làm lễ tế rước các vị thần làng. Lễ hội chùa Hương còn là nơi hội tụ các sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo như bơi thuyền, leo núi và các chiếu hát chèo, hát văn. Không chỉ có vẻ đẹp độc đáo của kiến trúc, phong cảnh chùa cùng với nét đặc sắc của ngày lễ mà chùa Hương còn chứa đựng những giá trị sâu sắc về văn hóa tâm linh, lịch sử dân tộc và còn là giá trị sống của chuỗi phát triển con người từ xa xưa đến ngày nay, cần được bảo tồn, duy trì và gìn giữ di sản mà ông cha ta để lại.

Như vậy, với những giá trị đó, chùa Hương chính là niềm tự hào của người Hà Nội nói chung và người Việt Nam nói riêng, đến với chùa Hương là đến với không gian thanh tịnh, sống chậm lại để cảm nhận sự nhẹ nhõm trong tâm hồn, buông bỏ mọi áp lực, căng thẳng trong cuộc sống ngoài kia.

0 0 votes
Article Rating

Giúp chúng mình chia sẻ bài viết nhé:

26 views
Share via
Copy link